Tác hại của thuốc lá
Ảnh hưởng của các chất độc có trong
thuốc lá là rất lâu dài và nghiêm trọng, là nguyên nhân trực tiếp làm tăng nguy
cơ mắc bệnh không lây nhiễm như: huyết áp, tim mạch, ung thư, bệnh đường hô
hấp. Nicotine có trong thuốc lá làm thay đổi tâm trạng người sử dụng. Nó kích
thích hệ thần kinh trung ương khiến người sử dụng cảm thấy tràn đầy sinh lực,
thôi thúc người hút muốn hút thêm dẫn đến tình trạng nghiện thuốc lá. Các độc
tố trong khói thuốc còn ngăn cản việc tuần hoàn máu lên não, ảnh hưởng đến tinh
thần trong ngày của người hút, làm suy giảm trí nhớ…. Hút thuốc lá là một thói
quen xấu, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe bản thân người sử dụng mà còn ảnh
hướng đến sức khỏe người hít phải khói thuốc thụ động và môi trường xung quanh.
Nhiều sản phẩm thuốc lá mới hiện nay có màu sắc, hương vị rất bắt mắt, lôi cuốn
giới trẻ rất dễ để các đối tượng xấu trà trộn, sử dụng cùng với ma túy tổng
hợp.
Người không hút thuốc nhưng thường xuyên sống và làm việc trong môi trường có
khói thuốc có thể hít vào lượng khói thuốc tương đương với hút 5 điếu thuốc một
ngày. Trẻ em chỉ cần một giờ
trong phòng có người hút thuốc cũng đã hấp thụ số hóa chất độc hại tương đương
hút 10 điếu thuốc một ngày. Khói thuốc gây ảnh hưởng trong phạm vi 7-10m. Do
đó, ngay cả khi ở xa người hút thì người hít phải khói thuốc lá thụ động vẫn gặp
những nguy cơ về sức khỏe.
A. Thuốc lá điếu truyền
thống
1. Tác hại của thuốc lá điếu truyền thống
Theo Luật Phòng, chống tác hại của
thuốc lá, “Thuốc lá” là sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hoặc một phần nguyên
liệu thuốc lá, được chế biến dưới dạng thuốc lá điếu, xì gà, thuốc lá sợi,
thuốc lào hoặc các dạng khác. Theo báo cáo của Tổng hội Y khoa Hoa kỳ, khói
thuốc lá chứa 7.000 hóa chất, trong đó có 69 chất gây ung thư. Một số chất độc
hại điển hình trong khói thuốc lá gồm: Nicotine Nicotine là một chất gây
nghiện, được hấp thụ vào máu và ảnh hưởng đến não bộ trong khoảng 10 giây sau
khi hút vào. Nicotine gây tăng nhịp đập của tim, co thắt mạch máu ở tim, tăng
mạch và huyết áp. Cục quản lý Dược và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) xếp nicotine vào
nhóm các chất có tính chất dược lý gây nghiện mạnh, tương tự Heroin và Cocain.
Khi nicotine trong khói thuốc gắn
kết thụ thể nicotine trên các tế bào não bộ, các hóa chất dẫn truyền thần kinh
được phóng thích tạo ra nhiều tác động như cảm giác sảng khoái, vui vẻ, tăng
hoạt động nhận thức. Tuy nhiên, cảm giác đó sẽ mau qua đi sau vài phút. Khi
nồng độ nicotine trong cơ thể giảm xuống, người hút thuốc sẽ cảm thấy bứt rứt,
căng thẳng; không tập trung được; buồn bã, lo lắng; rối loạn giấc ngủ... Vì
vậy, để có sự thoải mái, người hút thuốc phải tiếp tục hút thuốc. Ở những người
sử dụng thuốc lá, nicotine được tìm thấy ở tất cả các cơ quan, bộ phận trong cơ
thể và trong cả sữa mẹ.
Đối với những người hút trên 15 điếu
thuốc một ngày, nồng độ nicotine trong máu luôn ở mức cao làm cho việc cai
thuốc trở lên khó khăn hơn rất nhiều. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các nhà
sản xuất thuốc lá sử dụng nhiều hoá chất đi kèm nhằm tăng độ hấp thu nicotine
vào cơ thể.
Hắc ín
(Tar): Hắc ín hay còn gọi là
nhựa thuốc lá, có màu đen và quánh giống như nhựa đường, chứa rất nhiều chất
gây ung thư.
Carbon monoxide (khí CO):
Khí CO trong khói thuốc lá khi hấp thụ vào máu sẽ gắn kết rất chặt với
hemoglobine trong hồng cầu, làm giảm khả năng vận chuyển oxy của hồng cầu, giảm
nồng độ oxy trong máu, là nguyên nhân hình thành các mảng xơ vữa động mạch, gây
các bệnh về tim mạch, đột quỵ.
Benzene: Là một chất
sinh ung thư được tìm thấy trong khói của dầu khí hay trong thuốc trừ sâu bọ. Chất
này có nồng độ rất cao trong khói thuốc lá, lượng benzene tác động đến con 7
người từ khói thuốc lá chiếm một nửa lượng benzene xâm nhập vào con người từ
tất cả các nguồn.
Nitrosamines:
Là một chất gây ung thư rất mạnh có nhiều trong khói thuốc và cả trong các sản
phẩm thuốc lá không khói.
Ammonia:
Là một chất được sử dụng trong thuốc kích thích tăng trưởng và trong các sản
phẩm tẩy rửa. Trong sản xuất thuốc lá, chất này được sử dụng tăng cường khả
năng hấp thụ Nicotine của niêm mạc đường hô hấp, vì thế cùng một lượng khói
thuốc hít vào, lượng Nicotine được hấp thụ tăng lên.
Formaldehyde:
Là chất dùng trong công nghệ ướp xác, và nó cũng có nhiều trong khói thuốc.
Chất này gây kích thích mũi, họng và mắt của người hút thuốc khi hít phải khói
thuốc lá.
Polycyclic aromatic hydrocarbon (PAH): Là một chất gây ung thư tìm thấy trong dầu đi ê zen và sản
phẩm đốt cháy khác.
2. Các bệnh do sử dụng sản phẩm thuốc lá truyền thống gây ra
2.1. Hút thuốc lá và các bệnh ung
thư
Sử dụng thuốc lá là nguyên nhân gây
hơn 90% các ca ung thư phổi. Trên thế giới, tỉ lệ mắc ung thư phổi tăng khá
nhanh và có sự liên quan mật thiết với việc hút thuốc. Phụ nữ hút thuốc có nguy
cơ bị mắc ung thư phổi cao gấp 10 lần so với những người không hút thuốc. Với
nam giới hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh cao hơn gấp đôi, từ 12,2 lên tới 25 lần4.
Khi hút thuốc lá với lượng lớn hơn và thời gian hút dài hơn, nguy cơ ung thư
phổi cũng tăng lên.5 Tại Việt Nam, theo thống kê tại Bệnh viện K, hơn 90% những
người mắc ung thư phối là người sử dụng thuốc lá. Nguy cơ mắc và chết do ung
thư phổi tăng lên cùng với sự gia tăng số lượng thuốc hút và thời gian hút
thuốc. Bỏ thuốc lá thành công làm hạn chế đáng kể nguy cơ mắc và chết do ung
thư phổi.
Ung thư thanh quản Thanh quản tiếp
xúc trực tiếp với chất sinh ung thư trong khói thuốc lá khi hơi thuốc được hít
qua thanh môn ở khoảng giữa hai dây thanh âm. Những người hút thuốc từ 30 đến
39 năm có nguy cơ mắc ung thư thanh quản cao gấp 12 lần so với người không hút
thuốc. Những người hút từ 40 năm trở lên có nguy cơ mắc ung thư thanh quản gấp
14 lần so với những người không hút thuốc. Những người hút thuốc từ 20 đến trên
20 điếu/ngày có nguy cơ mắc ung thư thanh quản cao gấp 12 đến 25 lần so với
người không hút thuốc.
Ung thư hầu, miệng Các dẫn chất
trong khói thuốc lá có chứa các chất thúc đẩy sự phát triển ung thư trong
khoang miệng. Nguy cơ mắc ung thư khoang miệng ở nam giới có hút thuốc lá cao
hơn 27 lần so với nam giới không hút thuốc lá. Con số này lên tới 14 lần đối
với ung thư hầu. Nghiên cứu theo dõi của Hội ung thư Hoa Kỳ theo dõi 352.363
nam và 553.593 nữ từ 1982-1996 cho thấy nguy cơ chết do ung thư miệng hầu tăng
lên từ 4 đến 13 lần (ở nam) và từ 2 đến 12 lần (ở nữ) khi số lượng điếu thuốc
lá hút hàng ngày tăng lên.
Ung thư thực quản với đầy đủ các
bằng chứng từ nghiên cứu dịch tễ học, y sinh học và thực nghiệm các nhà khoa
học Hoa Kỳ đã kết luận được hút thuốc lá là nguyên nhân chính gây ra ung thư
thực quản. Nghiên cứu cho thấy những người hút thuốc lá liên tục có nguy cơ mắc
ung thư này cao hơn gấp 3,7 lần so với người không hút thuốc.
Ung thư tụy Các nghiên cứu cho thấy
người sử dụng nhiều thuốc lá nguy cơ mắc ung thư tụy cao hơn người không bao
giờ hút thuốc từ 3 đến 5 lần. Nguy cơ này giảm đi ở những người đã cai thuốc
lá.
Ung thư bàng quang và ung thư thận
Hút thuốc lá có thể gây ra tới 30% đến 40% các trường hợp ung thư bàng quang.
Nguy cơ này tăng lên cùng với số lượng và thời gian hút thuốc tăng. Hút thuốc
lá gây ra 70% đến 82% các trường hợp ung thư quanh thận và ung thư niệu quản ở
nam và 37% đến 61% ở nữ.
Nguy cơ mắc ung thư thận ở những
người hút thuốc cao hơn người không hút thuốc có thể tới 5 lần.
Ung thư cổ tử cung Có mối quan hệ
nhân quả giữ hút thuốc lá và ung thư cổ tử cung. Nguy cơ mắc ung thư tử cung ở
người hút thuốc có thể cao gấp 5 lần người không hút thuốc. Nguy cơ mắc giảm
sau khi cai thuốc.
Ung thư dạ dày Nhiều nghiên cứu dịch
tễ học đã báo cáo tỷ lệ chết và mắc ung thư dạ dày cao hơn ở nhóm những người
hút thuốc. Từ năm 2002, các nhà khoa học thuộc trung tâm nghiên cứu ung thư
quốc tế (IARC) đã kết luận rằng có đủ bằng chứng chứng tỏ hút thuốc lá có quan
hệ nhân quả với ung thư dạ dày
2.2. Hút thuốc lá và các bệnh tim
mạch
Khói thuốc khi vào cơ thể sẽ gây ra
một số tác động ngay lập tức lên tim và mạch máu. Trong phút đầu của quá trình
hút thuốc nhịp tim bắt đầu tăng lên, có thể tăng tới 30% trong 10 phút đầu hút
thuốc. Nhịp tim có thể giảm xuống từ từ nếu tiếp tục hút thuốc, nhưng không bao
giờ trở về bình thường nếu chưa ngừng hút. Mối liên hệ giữa hút thuốc lá và
nguy cơ bị bệnh tim mạch đã được các nhà khoa học phát hiện ra từ những năm
1940. Mối liên quan chặt chẽ giữa hút thuốc lá và bệnh tim mạch không chỉ thấy
ở cả 2 giới, trong người trẻ và người già mà còn thấy ở tất cả các chủng tộc.
Những bệnh mà người hút thuốc có
nguy cơ mắc cao là xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành, đột quỵ, rối loạn nhịp
tim, đột tử, nhồi máu cơ tim, phình động mạch chủ. Xơ vữa động mạch Chứng xơ
vữa động mạch là do tích luỹ các chất béo trong động mạch và gây cản trở và làm
hẹp các động mạch. Xơ vữa động mạch là nguyên nhân dẫn đến bệnh mạch vành do 10
lớp nội mạch bị phá huỷ bởi các hóa chất trong khói thuốc.
Một nghiên cứu
trên cộng đồng ở Pháp năm 1991 cho thấy so với nhóm nữ không hút thuốc, nhóm nữ
hút thuốc có nguy cơ mắc xơ vữa động mạch cao gấp 3,9 lần. Một nghiên cứu khác
do Fine-Edelstein và cs. (1994) tại Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng so với nhóm không hút
thuốc, nhóm đang hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn gấp 2,8 lần (ở
nam) và 3,1 lần (ở nữ).
Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra
mối quan hệ nhân quả giữa hút thuốc lá và nhồi máu cơ tim cho dù nghiên cứu
được thực hiện trên chủng tộc hay dân tộc nào. Hút thuốc lá còn được xác định
là yếu tố nguy cơ nghiêm trọng nhất của bệnh nhồi máu cơ tim ở phụ nữ dưới 50 tuổi.
So với người không hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh mạch vành tăng lên 1,6 lần ở
người đã từng hút thuốc, lên 3 lần ở người hút từ 1-14 điếu/ngày và lên 5,5 lần
ở người hút trên 14 điếu thuốc/ngày. Nguy cơ mắc và chết do bệnh mạch vành ở
người hút thuốc cao hơn người không hút thuốc từ 2,5 lần đến 75 lần tùy theo
mức độ hút thuốc, theo giới và tuổi. Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ chết đột
ngột do kết dính tiểu cầu, giải phóng những chất catecholamines gây ra huyết
khối cấp tính và loạn nhịp tim.
Các bằng chứng cho thấy nicotine ảnh
hưởng đến khả năng dẫn chuyền của tế bào cơ tim, thể hiện mối quan hệ nhân quả
giữa hút thuốc lá với loạn nhịp tim và chết đột ngột. Bệnh mạch máu não Bệnh
mạch máu não là một hội chứng tổn thương thần kinh do máu tưới lên não bị ngắt
quãng. Tổn thương có thể từ nhẹ đến nặng tùy theo vùng não bộ nào bị tổn thương
và có thể là tạm thời (thiếu máu cục bộ tạm thời) hay vĩnh viễn (đột quỵ). Qua
nhiều nghiên cứu, các nhà khoa đã khẳng định hút thuốc lá là một nguyên nhân
gây ra bệnh mạch máu não.
Một nghiên cứu theo dõi 40 năm từ
1951 đến 1991 của Doll và cs. (1994) khẳng định liên quan giữa hút thuốc và
chết cho đột quỵ. Nguy cơ chết do đột quỵ ở người hút thuốc cao hơn người không
hút thuốc từ 1,3 đến 2,1 lần tùy vào loại đột quỵ. Với những người hút thuốc
nhiều hơn, nguy cơ bị đột quy cao hơn, cụ thể là nguy cơ chảy máu dưới màng não
tăng lên từ 1,4 đến 1,7 và 3,4 lần ở ba nhóm tương ứng hút từ 1-14 điếu thuốc
lá/ngày, hút từ 15-24 điếu/ngày và hút từ trên 24 điếu/ngày.
Cao huyết áp Một tác động nguy hiểm
khác của khói thuốc là gây tăng huyết áp cấp tính. Trong vòng vài phút hút
thuốc, nhịp tim bắt đầu tăng. Để phản ứng lại sự kích thích này, mạch máu co
bóp lại buộc tim phải hoạt động nhiều hơn để luân chuyển ô xy. Một số nghiên
cứu cho thấy huyết áp trở về bình thường giữa các lần hút thuốc nhưng nếu hút
nhiều lần trong ngày làm tăng huyết áp trung bình, dẫn đến các bệnh về tim
mạch.
Hút thuốc còn làm giảm tác dụng của
việc điều trị tăng huyết áp do các chất hóa học trong khói thuốc kích thích gan
sản xuất enzym vào trong máu làm hạn chế tác dụng của thuốc.
2.3. Hút thuốc lá và các bệnh về hô
hấp
Hút thuốc lá ảnh hưởng đến phổi và
chức năng phổi như: tổn thương phổi, làm chậm phát triển chức năng phổi ở trẻ
nhỏ, làm giảm chức năng phổi. Hút thuốc lá còn gây ra 11 nhiều triệu chứng hô
hấp tính như: ho mạn tính, khò khè, có đờm, khó thở. Những người hút thuốc
thường bài tiết nhiều đờm hơn những người không hút thuốc mà khả năng đưa đờm
ra khỏi đường hô hấp lại kém hơn. Điều này là do hệ thống lông chuyển ở người
hút thuốc bị liệt, thậm chí bị phá huỷ.
Khói thuốc cũng làm thay đổi cấu
trúc các tuyến tiết nhầy và do vậy thành phần của chất nhầy cũng bị thay đổi.
Đôi khi các tuyến tiết nhầy bị tắc lại làm giảm khả năng bài tiết đờm. Hậu quả
cuối cùng là chất nhầy ở những người hút thuốc bị nhiễm bởi các chất độc hại,
và bị giữ lại nhiều trong tổ chức phổi, cản trở sự lưu thông trao đổi khí.
Những sự thay đổi cấu trúc phổi ở những người hút thuốc làm giảm khả năng lấy
oxygen của phổi.
Khói thuốc gây phá huỷ phế nang làm
giảm tính đàn hồi của phổi và làm giảm khả năng trao đổi oxygen. Phổi của những
người hút thuốc bị giảm diện tích bề mặt và giảm mạng mao mạch, điều này có
nghĩa là dòng máu lưu thông qua phổi bị giảm, từ đó dẫn đến làm giảm cung cấp
chất dinh dưỡng và oxygen cần thiết cho cả nhu mô phổi và các tổ chức khác
trong cơ thể để duy trì sự khỏe mạnh và chức năng bình thường của chúng. Hút
thuốc cũng gây ra hiện tượng giảm thông khí đường thở. Do ảnh huởng của các
chất độc hại trong khói thuốc, đường thở bị co thắt. Khi điều này xảy ra thì
luồng khí hít vào và thở ra đều bị cản trở ở người hút thuốc, và do đó hình
thành các tiếng ran rít, ran ngáy và có thể bị khó thở. Các bệnh hô hấp cấp
tính Hút thuốc lá làm tăng số lần mắc bệnh và làm tình trạng nhiễm khuẩn nặng
hơn.
Những người đã cai thuốc nguy cơ thở
khò khè giảm xuống. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
là thuật ngữ để chỉ những tổn thương ở phổi có liên quan đến sự tắc nghẽn đường
thở. Bệnh tiến triển kéo dài trong nhiều năm và cuối cùng dẫn đến tử vong.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là
nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 4 trên toàn thế giới. Mối liên quan giữa bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính và hút thuốc cũng mạnh như với ung thư phổi. Theo các
thống kê cho thấy, 90% người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là người nghiện
thuốc lá.
Hen Ở người hút thuốc bệnh hen sẽ bị
nặng hơn. Người mắc bệnh hen là người hút thuốc lá có nhiều đờm, giảm hoạt động
của lông mao, dễ bị nhiễm bệnh và dị ứng. Người mắc bệnh hen có triệu chứng hô
hấp mạn tính cao hơn ở người không hút thuốc.
Viêm đường hô hấp mãn tính hút thuốc
làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể. Nguy cơ viêm đường hô hấp mãn tính cao hơn
ở người không hút thuốc. Người hút thuốc không chỉ phải chịu đựng số lần mắc
bệnh nhiều hơn mà họ phải chịu nhiều các đợt bệnh ở mức độ nặng hơn.
2.4. Hút thuốc lá và các bệnh về sức khỏe sinh
sản
Hút thuốc lá làm giảm khả năng sinh
sản ở nam giới Hút thuốc giảm lượng tinh trùng: các nghiên cứu chỉ ra rằng các
chất độc trong khói thuốc kìm hãm chất enzym - là chất cần thiết cho tinh trùng
có thể hoạt động được. So với người không hút thuốc, mật độ tinh trùng của
người hút thuốc giảm 13%.
Hút thuốc làm biến đổi hình dạng
tinh trùng: Ở những người hút thuốc có phần trăm tinh trùng dị dạng cao hơn.
Điều này có thể dẫn tới sẩy thai, thai nhi dị tật bẩm sinh, hoặc biến chứng khi
sinh. Nghiện thuốc lâu năm có thể dẫn tới chứng liệt dương: Giống như cơ chế
gây tắc nghẽn mạch máu ở tim do quá trình xơ vữa động mạch, hút thuốc cũng là
một trong những nguyên nhân cốt lõi của bệnh xơ vữa động mạch trong mạch máu
của dương vật, làm giảm khả năng cương cứng. Những người hút thuốc có nguy cơ
bị liệt dương cao gấp 2 lần so với người không hút thuốc. Nguyên nhân do các
chất độc trong khói thuốc làm xơ vữa động mạch ở dương vật, làm giảm lượng máu
tới dương vật.
Hút thuốc lá làm giảm khả năng sinh sản ở nữ
giới Các nghiên cứu khoa học hiện nay đã chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa
hút thuốc với khả năng sinh sản ở nữ giới. Hút thuốc làm giảm khả năng sinh sản
của nữ, làm chu kỳ kinh nguyệt ngắn lại, ảnh hưởng đến khả năng thụ thai. So
với nữ không hút thuốc, nữ hút trên một bao thuốc một ngày mắc chứng này cao
hơn 1,4 lần, gây đẻ non hoặc thai chết lưu từ 1,4 đến 2,4 lần so với người
không hút thuốc lá. Ngoài ra hút thuốc còn làm giảm 20-30% cân nặng của trẻ sơ
sinh.
2.5. Hút thuốc lá và ảnh hưởng đến
vẻ bề ngoài
Hút thuốc lá có thể khiến cho người hút thuốc
trông có vẻ già hơn tuổi và ngoại hình sẽ trở nên kém hấp dẫn bởi răng bị ố
vàng, hơi thở có mùi hôi, da xỉn, đầu tóc, quần áo luôn ám mùi khói thuốc. Màu
da của người hút thuốc sẽ có xu hướng ngả về tông màu cam hoặc xám do thiếu
lượng oxy cung cấp cho các tế bào da, cùng với các tác động tiêu cực của nhiều
hóa chất khác trong thuốc lá. Chất nicotin và các chất độc khác có trong thuốc
lá sẽ bám màu vào răng, ngón, móng tay, khiến chúng dần chuyển sang màu vàng và
có mùi khó chịu. Việc này gần như không thể loại bỏ bằng xà phòng hay nước.
Cách duy nhất để thực sự thoát khỏi tình trạng vàng da này là ngừng hút thuốc.
3. Tác hại của thuốc lá tới kinh tế
và môi trường
Mặc dù ngành công nghiệp thuốc lá có
những đóng góp cho ngân sách quốc gia, nhưng phần đóng góp của ngành công
nghiệp thuốc lá không đủ để bù đắp những tổn thất kinh tế và sức khoẻ do sử
dụng thuốc lá gây ra đối với các cá nhân, gia đình và xã hội. Những tổn thất
này bao gồm chi tiêu cho hút thuốc, chi cho khám, điều trị bệnh liên quan đến
hút thuốc, tổn thất do mất khả năng lao động vì ốm đau và tử vong sớm, tổn thất
do cháy nổ, ô nhiễm môi trường. Ước tính số tiền người dân Việt Nam đã chi mua
thuốc lá hàng năm là 49.000 tỷ VND/năm (Ước tính từ tổng tiêu thụ năm 2020).
Ngoài tổn thất do chi mua thuốc hút, chi phí điều trị 5 nhóm bệnh (ung thư
phổi, ung thư đường tiêu hóa-hô hấp trên, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, nhồi
máu cơ tim, đột quỵ) trên tổng số 25 bệnh do thuốc lá gây ra: Trên thế giới
khoảng 1-2% GDP, tại Việt Nam khoảng 1% GDP tương đương với 3 tỷ USD (67.000 tỷ
đồng). Chi tiêu cho thuốc lá làm giảm các chi tiêu thiết yếu khác của hộ gia
đình, đặc biệt là các hộ có thu nhập thấp. Một cuộc điều ra mức sống hộ gia
đình cho thấy các hộ nghèo tại Việt Nam phải tiêu tốn tới gần 5% thu nhập của
gia đình vào thuốc lá. Ở những hộ này, khoản tiền mua thuốc lá thậm chí cao hơn
khoản tiền chi cho y tế hay cho giáo dục. Nếu người hút thuốc nghèo bỏ thuốc,
họ sẽ có nhiều tiền hơn để mua thức ăn hoặc để trả tiền học cho con em mình.
B. Thuốc lá điện tử,
thuốc lá nung nóng
Trong những năm gần đây, nhiều loại
sản phẩm gọi là thuốc lá mới đã được các công ty đã quốc gia đưa ra thị trường,
bao gồm: TLĐT, thuốc lá nung nóng, shisha và các loại khác (thuốc hít, nhai…).
Các loại thuốc lá mới này còn có các tên gọi khác nhau như: sản phẩm thuốc lá
thế hệ mới (next generation products); sản phẩm nicotin dạng hơi (vaporized
nicotine products); sản phẩm nicotin thay thế (alternative nicotine products);
... TLĐT và thuốc lá nung nóng là hai loại sản phẩm thuốc lá mới có xu hướng sử
dụng gia tăng và phổ biến nhất hiện nay trên thế giới và tại Việt Nam, đặc biệt
là ở giới trẻ. Các sản phẩm này hiện không được quy định trong Luật Phòng,
chống tác hại của thuốc lá, chưa được phép nhập khẩu, kinh doanh và lưu hành
tại Việt Nam.
1. Thông tin chung về đặc điểm, cấu tạo, thành phần của
TLĐT, thuốc lá nung nóng
1.1. Đặc điểm, cấu tạo của TLĐT TLĐT
(Electronic Nicotine Delivery Systems – ENDS)
Còn được gọi tên khác như E
cigarette hay Vape, là thiết bị điện tử cầm tay, sử dụng pin để làm nóng dung
dịch điện tử có chứa nicotine và các chất hóa học khác, tạo ra các hạt khí dung
(còn gọi là aerosol hay sol khí) cho người dùng hít vào. TLĐT có bốn bộ phận
chính gồm pin, bộ phận cảm biến, buồng đốt/bộ phun, và bộ phận ống chứa dung
dịch điện tử. Buồng đốt (bộ phận tạo hạt khí dung) Có các ống xoắn tạo ra nhiệt
để làm nóng dung dịch điện tử tạo thành các hạt khí dung (aerosol, hay còn gọi
là sol khí). Bộ phận cảm biến Bộ phận cảm biến giúp TLĐT hoạt động khi người sử
dụng hít vào. Pin Được thiết kế là pin lithium sạc nhiều lần, có thể làm nóng
bộ phận tạo khí lên tới 200°C trong vài giây. Ống đựng dung dịch điện tử. Được
nạp sẵn hoặc tái nạp lại sau khi sử dụng. Thường được gắn với bộ phận tạo khí.
Các loại TLĐT Các thiết bị TLĐT khác
nhau về hình dạng, kích thước và chức năng. Có nhiều “thế hệ” TLĐT khác nhau
tùy theo công nghệ và thiết kế, từ thế hệ TLĐT đầu tiên có hình dạng “giống
điếu thuốc” và sử dụng 1 lần đến các thiết bị TLĐT sử dụng nhiều lần hiện nay.
TLĐT sử dụng một lần Có hình giống điếu thuốc (cigalike), không thể sạc hay tái
nạp lại dung dịch điện tử, dùng một lần cho đến khi hết pin hoặc hết dung dịch
có sẵn trong thiết bị. TLĐT sử dụng nhiều lần (vape pens) Có ống chứa dung dịch
điện tử được đóng sẵn bởi nhà sản xuất và có thể thay ống mới khi sử dụng hoặc
có bộ phận chứa dung dịch điện tử có thể tái nạp sau khi sử dụng. Ống chứa dung
dịch điện tử được gắn vào pin. TLĐT này có hình như chiếc bút (vape pen). TLĐT
sử dụng nhiều lần (tank systems) Có đầu đốt dung dịch điện tử và thân máy tích
hợp bộ điều khiển và pin (tanks mods) cho phép người sử dụng có thể điều chỉnh
được nhiệt độ và thay đổi thành phần dung dịch điện tử. Thiết bị có thể sạc và
sử dụng nhiều lần. 18 TLĐT sử dụng nhiều lần (pod systems) Có phần đầu là bình
chứa dung dịch điện tử được nạp sẵn hoặc tái nạp gắn với thân máy tích hợp hệ
thống có thể điều chỉnh (Pod mods). Sản phẩm thường sử dụng muối nicotine thay
vì nicotine đơn thuần như trong các sản phẩm TLĐT khác, cho phép dung nạp
nicotine nồng độ cao.
Tinh dầu được sử dụng trong các sản
phẩm TLĐT có thành phần, nồng độ rất khác nhau. Chúng thường là hợp chất có
chứa: nicotine, propylene glycol, glycerin, và chất tạo hương vị. Một số rất ít
TLĐT không chứa nicotine. Thành phần chính của dung dịch điện tử/tinh dầu như
sau: Chất nicotine có trong TLĐT có nguồn gốc từ chiết xuất từ thuốc lá hoặc
nicotine tổng hợp nhân tạo. Hàm lượng nicotine của TLĐT có thể dao động từ 0
mg/ml đến hơn 66 mg/ml (ít nhất gấp đôi hàm lượng nicotine trong một điếu thuốc
lá tiêu chuẩn).
Nicotine được sử dụng trong dung
dịch điện tử/tinh dầu có các dạng khác nhau. Nicotine gốc tự do là một dạng
nicotine được biến đổi và có thể khiến thuốc lá trở nên gây nghiện hơn bằng
cách đưa nicotine nhanh chóng vào não.
Gần đây, các nhà sản xuất TLĐT đã
phát triển các muối nicotine cung cấp lượng nicotine cao hơn cho người dùng40.
o Propylene glycol (PG) and glycerol Các hợp chất này là chất mang nicotine và
một số hương liệu. Tỷ lệ của 2 hợp chất này thường quyết định trải nghiệm với
TLĐT vì chúng có thể ảnh hưởng đến độ êm, và khói (đám mây) được tạo ra trong
quá trình sử dụng.
Bụi mịn và siêu mịn ở trong sol khí
thụ động có thể được hình thành từ hơi 1, 2-propanediol (propylene glycol) bão
hòa41. Hương vị Có khoảng 16.000 hương vị độc đáo có sẵn ở trên thị trường,
nhiều loại trong số đó hấp dẫn trẻ em. Những hương vị này có thể che giấu độ
gắt của nicotine và đóng vai trò trong quyết định sử dụng TLĐT lần đầu của
người dùng. Hương vị làm cho sản phẩm dễ chịu hơn, dễ hít vào hơn, do đó, thay
đổi nhận thức liên quan đến việc sử dụng. Ví dụ, hương vị như tinh dầu bạc hà
góp phần thúc đẩy và duy trì việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá, trong khi các
hương vị như quế có thể cải thiện vị ngon của sản phẩm. Các loại hương vị khác
nhau là yếu tố hấp dẫn người sử dụng TLĐT và là yếu tố thúc đẩy thanh thiếu
niên thử TLĐT và nghiện nicotine.
1.2. Đặc điểm, cấu tạo của thuốc lá
nung nóng
Thuốc lá nung nóng (Heated Tobacco
Products – HTPs) là thiết bị điện tử sử dụng pin để làm nóng sợi thuốc lá tới
nhiệt độ nhất định hoặc kích hoạt thiết bị có chứa sợi thuốc lá, tạo ra sol khí
chứa nicotine và các chất phụ gia tạo hương vị cho người dùng hít vào. Nhiệt độ
do thuốc lá nung nóng tạo ra (trực tiếp hoặc gián tiếp) lên đến 350ºC, thấp hơn
nhiệt độ cháy ở đầu điếu thuốc lá truyền thống (600ºC)
Thuốc lá nung nóng có cấu tạo cơ bản gồm ba
phần chính gồm phần sạc pin, tẩu hút (có chứa pin) và phần thuốc lá chuyên
dụng. 20 Hình 8. Cấu tạo của thuốc lá nung nóng.
Phần sạc pin (charger): dùng để sạc cho tẩu
thuốc sau mỗi lần hút. Hộp sạc chứa pin lớn hơn dự trữ đủ năng lượng để sạc tẩu
hút 20 lần. Tùy vào từng dòng máy mà hộp sạc sẽ có thiết kế khác nhau đôi chút
về hình dáng.
Phần tẩu hút thuốc (holder): được
thiết kế để gắn phần điếu thuốc lá vào và có thanh tạo nhiệt được điều khiển
bằng điện tử.
Phần điếu thuốc lá chuyên dụng
(tobacco stick): chứa thuốc lá được chế biến phù hợp để tạo khói.
Thuốc lá nung nóng cũng có nhiều
loại thiết kế khác nhau. Đáng lưu ý là ngày càng có nhiều sản phẩm thuốc lá
“lai” mới có chứa cả nguyên liệu lá thuốc lá và dung dịch nicotine, và thiết bị
hoá hơi có thể làm nóng thảo mộc khô bao gồm cả cần sa.
Thuốc lá nung nóng sử dụng nguyên
liệu thuốc lá được thiết kế dạng điếu, hoặc ổ cắm hoặc viên nang. Thuốc lá nung
nóng dung dịch điện tử để tạo ra khí dung (sol khí) và sau đó đưa lượng khí này
vào khoang chứa nguyên liệu thuốc lá để hấp thu hương vị và nicotine từ thuốc
lá. Thuốc lá nung nóng có gắn thiết bị làm nóng sợi thuốc lá hoặc cả lá thuốc
lá và thảo mộc khô bao gồm cần sa.
Nguyên liệu thuốc lá sử dụng trong
thuốc lá nung nóng là thuốc lá đã qua chế biến, các chất phụ gia không phải
thuốc lá và các hương liệu. Thuốc lá có thể ở hình thức điếu hoặc ở các hình
thức thiết kế đặc biệt khác như thanh, viên nang chứa thuốc lá băm nhỏ. Các
hương vị phổ biến như trái cây, bạc hà, vị trái cây vị cà. Khói của thuốc lá
nung nóng có chứa nicotine và các hóa chất độc hại khác giống như trong khói
thuốc lá điếu thông thường, các hóa chất phụ gia không phải thuốc lá và thường
có hương vị. Các hóa chất trong thuốc lá nung nóng có khả năng gây hại cho sức
khỏe gồm: kim loại nặng, formaldehyde, nicotine, hydrocarbon thơm đa vòng,
cacbon monoxide, accetaldehyde, acrolein.
2. Tác hại của sử dụng TLĐT, thuốc lá nung nóng tới sức khỏe
của người hút thuốc chủ động
2.1. Tác hại của TLĐT đến sức khỏe của người
sử dụng
Gây nghiện và ảnh hưởng tới hệ thần kinh,
Nicotine có trong TLĐT là chất gây nghiện mạnh và rất độc hại, do đó gây hại
như các sản phẩm thuốc lá điếu thông thường.
Nicotine làm cho người hút thuốc lá nhanh
chóng bị nghiện thuốc lá (lệ thuộc vào nicotine) dù chỉ sau vài lần hút thuốc.
Nicotine có thể vào não bộ từ 7 đến 10 giây sau khi hút TLĐT, làm tăng lượng
dopamine trong não và làm người hút thuốc cảm thấy sảng khoái. Khi đã bị nghiện
thuốc lá, nếu thiếu thuốc lá hoặc dừng hút thuốc sẽ có biểu hiện thèm thuốc, cơ
thể mệt mỏi, chán nản, hay cáu kỉnh. Để cai nghiện thuốc lá rất khó, và mất
nhiều thời gian và công sức. Sử dụng nitcotine liều cao có thể làm trầm trọng
hơn các triệu chứng trầm cảm và lo âu. Sử dụng nicotine lâu dài làm kìm hãm sự
phát triển của não bộ, ảnh hưởng đến khả năng nhớ, tập trung chú ý và học tập,
do vậy đặc biệt tác động đối với trẻ em. Do não bộ của con người phát triển từ
khi sinh ra cho đến khi 25 tuổi, thanh thiếu niên sử dụng TLĐT dễ dàng bị
nghiện nicotine hơn, ảnh hưởng tới sức khỏe cũng xảy ra sớm hơn và trầm trọng
hơn
Sử dụng nicotine ở tuổi vị thành
niên cũng có thể làm tăng nguy cơ nghiện các chất gây nghiện khác (như ma túy)
ở nhóm tuổi này. Hơn nữa, sử dụng TLĐT ở giới trẻ cũng làm tăng khả năng hút
thuốc lá trong tương lai. Các dung dịch
TLĐT hoặc dung dịch có trong một số loại thuốc lá nung nóng dạng “lai” trong
quá trình sử dụng người dùng/người sản xuất có thể phối trộn thêm các chất ma
túy rất khó kiểm soát.
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã khẳng
định rằng TLĐT tạo ra các hóa chất độc hại giống như thuốc lá điếu thông
thường, kèm theo các phụ gia hương liệu và kim loại nặng. Những chất này có thể
gây hại cho sức khỏe và tác động tiêu cực của TLĐT đối với chức năng phổi đã
được ghi nhận. Các bệnh lý tổn thương phổi nghiêm trọng liên quan đến TLĐT có
thể kể đến: Bệnh “phổi bỏng ngô” (popcorn lung) hay còn gọi là viêm tiểu phế
quản tắc nghẽn, một bệnh hiếm gặp được cho là do diacetyl, một trong các hóa chất
tạo mùi hương trong khói TLĐT có khả năng đi sâu vào phổi gây ra. Các biểu
hiện thường gặp là ho, thở khò khè, đau ngực và thở nông. Hiện chưa có thuốc
điều trị khỏi hoàn toàn bệnh này.
Bệnh viêm phổi lipoid có liên quan đến hút
TLĐT và cả thuốc lá nung nóng (vaping related lipoid pneumonia) là hậu quả của
việc hít các hợp chất dầu có trong dung dịch điện tử. Các axit béo bám dính vào
phổi và gây ra phản ứng viêm tại phổi. Các triệu chứng thường gặp là ho mạn
tính, thở nông, ho ra máu hoặc đờm có máu. Hiện tại không có thuốc điều trị đặc
hiệu cho bệnh này.
• Hội chứng tổn thương phổi cấp do
TLĐT là hậu quả nổi bật nhất do sử dụng TLĐT. Tetrahydrocannabinol và Vitamin E
acetate có trong TLĐT được cho là nguyên nhân gây hội chứng này. Các triệu
chứng thường gặp là khó thở, ho, đau ngực, sốt, ớn lạnh, tiêu chảy, buồn nôn và
nôn, thở nhanh và nông, thiếu oxy máu, X-quang có các đám mờ vùng khí quản hai
bên.
Suy giảm chức năng phổi: Kim loại
được giải phóng từ khói TLĐT, tùy mức độ tiếp xúc, có khả năng gây ra khó thở,
kích ứng phế quản và phổi, kích ứng màng nhầy ở mắt và đường hô hấp trên.
Hen suyễn, Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
(COPD): sử dụng TLĐT lâu dài có thể gây bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Triệu
chứng thường gặp của bệnh là ho, khó thở kéo dài vì đường thở bị hẹp lại so với
bình thường. Phổi tắc nghẽn mạn tính có thể gây ra tình trạng suy giảm hô hấp,
hạn chế khả năng hoạt động hàng ngày, làm giảm chất lượng cuộc sống56. Hơn nữa,
TLĐT được cho là có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng của các bệnh phổi
khác, bao gồm xơ nang, viêm phổi kích ứng đường hô hấp, chủ yếu là đường hô hấp
trên, hội chứng suy hô hấp cấp tính, thay đổi chức năng tế bào miễn dịch, thay
đổi chức năng tế bào biểu mô, thay đổi biểu hiện gen và protein của tế bào biểu
mô, và xuất huyết phế nang.
Ngày càng có nhiều bằng chứng chứng minh rằng
TLĐT tác động đến chức năng tim mạch. Nicotine làm tăng nguy cơ rối loạn tim
mạch. Sử dụng nicotine lâu dài có thể gây suy tim hoặc tử vong. Bên cạnh đó,
nghiên cứu cũng cho thấy dù chỉ tiếp xúc với TLĐT trong thời gian ngắn cũng có
thể gây ra rối loạn chức năng mạch máu, làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối
và xơ vữa động mạch, trong lâu dài là nguy cơ biến chứng mạch vành, nhồi máu cơ
tim, suy tim, đột quỵ.
Tăng nguy cơ ung thư. Một số hợp
chất có trong khói TLĐT như: formaldehyd, acrolein, toluene, chất đặc biệt gây
ung thư nitrosamine và hydrocarbon thơm đa vòng, các kim loại nặng (như niken
và chì) có thể gây các thay đổi tế bào liên quan đến ung thư tương tự như người
hút thuốc lá điếu thông thường. Ngoài việc gây nghiện cao, nicotine làm tăng
nguy cơ gây ung thư thông qua tăng sinh tế bào, mất cân bằng oxy hóa, gây chết
tế bào và đột biến DNA, cũng như sự phát triển của khối u.
Gây ra các bệnh răng, miệng Người sử
dụng TLĐT có nguy cơ mắc bệnh nướu răng, sâu răng, mất xương quanh răng, các
bệnh nha chu khác và tổn thương niêm mạc miệng cao hơn nhiều so với những người
không bao giờ sử dụng. Nguy cơ mắc bệnh nha chu ở người sử dụng TLĐT cũng cao
hơn đáng kể so với người không hút thuốc và tương đương với người hút thuốc lá
bởi tiếp xúc với TLĐT có ảnh hưởng tới sự hình thành màng vi khuẩn, điều chỉnh
phản ứng viêm miệng, tăng cường sự gắn kết của tụ cầu vàng (Staphylococcus
aureus) với các tế bào biểu mô miệng, do đó, thúc đẩy viêm nha chu và tiền ung
thư.
Tác hại lên sự phát triển và sinh sản TLĐT
chứa nhiều chất có hại, trong đó có chất gây rối loạn nội tiết gây mất cân bằng
nội tiết tố, ảnh hưởng lên quá trình phát triển hình thái và chức năng của cơ
quan sinh sản. Một số tinh dầu có hương vị cụ thể trong TLĐT có khả năng gây
độc tế bào đặc biệt với tế bào gốc phôi thai, gây giãn phế quản ở trẻ sơ sinh
và các biến chứng khác.
Các nguy cơ khác của việc sử dụng
TLĐT: Ngộ độc Ngộ độc do sử dụng TLĐT bao gồm cả do vô tình (chủ yếu là ở trẻ
nhỏ) và cố ý (trong thanh thiếu niên và người lớn), đã được báo cáo ở Mỹ, Châu
Âu và các quốc gia khác trong những năm gần đây.
Từ năm 2015 đến năm 2022, tổng cộng
66 trường hợp ngộ độc được báo cáo tiếp xúc với TLĐT và chất lỏng của TLĐT ở
Malaysia. Hơn một nửa (40 trường hợp) liên quan đến trẻ em dưới 5 tuổi. Hầu hết
các trường hợp đều vô tình nuốt phải chất lỏng của TLĐT (76%) tại nhà và các
triệu chứng do phơi nhiễm dao động từ nhẹ đến nặng, bao gồm nhiễm toan chuyển
hóa, co giật và suy nhược hệ thần kinh trung ương.
Ở Việt Nam, nhiều trường hợp ngộ độc
do sử dụng TLĐT trong học sinh đã được ghi nhận ở nhiều tỉnh thành trong cả
nước. Đáng chú ý, hầu hết các trường hợp xảy ra ở lứa tuổi học sinh, trong đó
có cả nữ giới. Một số trường hợp điển hình theo phản ánh của các cơ quan báo
chí như:
Ngày 26/7/2022, một nữ bệnh nhân 20 tuổi ở Hà
Nội được đưa vào viện trong tình trạng hôn mê sâu, tụt huyết áp, tổn thương não
lan tỏa các vị trí, tổn thương gan... Nguyên nhân được xác định là do bệnh nhân
bị ngộ độc với một loại ma túy thế hệ mới được tìm thấy trong TLĐT.
Ngày 17/8/2022, Bệnh viện 199 - Bộ
Công an (đóng tại quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng) cho biết, Khoa Cấp cứu của bệnh
viện vừa tiếp nhận và điều trị một bệnh nhân nghi ngộ độc khi hút TLĐT bơm tinh
dầu. Bệnh nhân được đưa vào viện cấp cứu trong tình trạng choáng váng, hồi hộp,
tay chân run, sau đó rơi vào hôn mê.
Ngày 22/8/2022, 7 HS trường THPT Dân
lập Yên Hưng, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh chia nhau một điếu TLĐT rồi
cùng nhau hút sau đó cảm thấy chóng mặt và nôn trong lớp và sau đó được đưa đi
cấp cứu.
Ngày 01/10/2022, Khoa Cấp cứu, Bệnh
viện Đa khoa Saint Paul tiếp nhận bệnh nhân sinh năm 2006 ở Thạch Thất, Hà Nội
trong tình trạng hôn mê, đồng tử giãn tối đa, bệnh nhân đã được đặt nội khí
quản. Sau khi tỉnh, bệnh nhân đã nói là hút TLĐT được bơm tinh dầu mua trên thị
trường.
Ngày 9/11/2022, một nam sinh 12 tuổi
hút TLĐT đã được đưa đến bệnh viện. Sau khi hút, xuất hiện các cơn run, chóng
mặt, khó thở và co giật. Kết quả xét nghiệm mẫu TLĐT cho thấy có thành phần của
một số chất gây nghiện và đây chính là nguyên nhân khiến bệnh nhân bị ngộ độc.
Ngày 5/12/2022, 7 HS lớp 3 trường
Tiểu học Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội được đưa vào khoa Nhi Bệnh viện
Bạch Mai cấp cứu trong tình trạng buồn nôn, đau đầu. Nguyên nhân là do các em
đã thử hoặc hít phải TLĐT.
Ngày 7/12/2022, bé trai 5 tuổi ở Hà
Nội uống khoảng 5ml dung dịch màu vàng của TLĐT, 15 phút sau có biểu hiện co
giật, nôn ói rồi hôn mê được đưa vào Bệnh viện Nhi Trung ương cấp cứu.
Các thiết bị TLĐT cho phép người dùng tùy
chỉnh các thành phần không tương thích với nhau, ví dụ: thay đổi ống tinh dầu
hay điều chỉnh nhiệt độ làm nóng. TLĐT bị lỗi, kém chất lượng hoặc tuỳ chỉnh
không hợp lý làm thiết bị pin quá nóng và có thể phát nổ, dẫn đến bỏng
nhiệt/lửa, bỏng hóa chất và chấn thương do nổ ở vùng mặt, tay và đùi hoặc
hang.
Chỉ riêng tại Hoa Kỳ từ năm 2015 đến 2017, ước
tính có khoảng 2.035 vụ nổ TLĐT và các tổn thương do bỏng tại các khoa cấp cứu
của bệnh viện Hoa Kỳ68,69. Từ năm 2016 đến 2019, 15 thanh thiếu niên Mỹ (13-18
tuổi) bị chấn thương do nổ thiết bị TLĐT. Các chấn thương bao gồm bỏng mặt,
đùi, háng, bàn tay, mắt, mất nhiều răng, chấn thương dây thần kinh hướng tâm, rách
mặt và gãy xương hàm dưới. Ít nhất hai trường hợp chết đã được ghi nhận ở Mỹ do
TLĐT phát nổ.
Hiệu ứng cửa ngõ-tăng nguy cơ sử
dụng thuốc lá truyền thống và các chất gây nghiện khác bao gồm cả ma túy Các
nghiên cứu xã hội và báo cáo phân tích của WHO đã cảnh báo rằng, TLĐT đóng vai
trò là cửa ngõ khiến cho trẻ em và thanh thiếu niên sau này sẽ sử dụng thuốc lá
thông thường.
2.2. Tác hại của thuốc lá nung nóng
đến sức khỏe của người sử dụng
Do có tính
tương đồng với thuốc lá điếu thông thường về thành phần nguyên liệu, thuốc lá
làm nóng cũng gây nghiện do có chứa nicotine và có những tác hại đối với sức
khỏe tương tự như thuốc lá điếu thông thường hiện nay. Những sản phẩm này mới
được đưa vào thị trường gần đây, bằng chứng khoa học về độc tính và ảnh hưởng
sức khỏe lâu dài của chúng vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, tích lũy. Tuy
nhiên, các nghiên cứu y khoa tiến bộ đã chỉ ra được những tác hại tiêu biểu và
không kém phần nguy hiểm cần được lưu ý như sau:
Tác hại lên hệ hô hấp TLNN có chứa
và thải ra nicotine. Theo WHO, hàm lượng nicotine trong nhiều loại TLNN gần
bằng thuốc lá điếu truyền thống. Ngoài những hậu quả lâu dài do tiếp xúc với
nicotine trong TLNN như với TLĐT, TLNN còn có thể gây hại hơn TLĐT do tạo ra
carbonyl (acrolein, acetaldehyde, formaldehyde) và hydrocarbon thơm đa vòng đều
là chất có hại cho phổi, trong đó có bệnh viêm phổi lipoid. Tác hại lên hệ tim
mạch Người dùng TLNN có nguy cơ mắc bệnh tim mạch tương tự như hút thuốc lá
điếu truyền thống. Nghiên cứu cho thấy tác động cấp tính lên nhịp tim, huyết áp
và độ cứng động mạch giữa hút thuốc lá nung nóng và thuốc lá truyền thống là
như nhau. Phơi nhiễm carbon monoxide làm giảm việc cung cấp oxy tới tim và các
tổ chức mô khác, theo đó qua thời gian làm tăng nguy cơ gây huyết khối, bệnh
tim và đột quỵ. Phơi nhiễm acrolein có trong TLNN góp phần làm tăng mảng bám
trong mạch máu cũng như tạo huyết khối, tăng nguy cơ tim mạch và cả đột quỵ
giống carbon monoxide.
Tăng nguy cơ ung thư. Các nghiên cứu
đã chỉ ra rằng TLNN chứa các thành phần gây ung thư ở mức độ tương tự như trong
thuốc lá điếu thông thường và nhiều độc chất khác ở mức độ cao…Phơi nhiễm chất
aldehydes giống như formaldehyde có thể gây ung thư phổi và mũi, ngoài việc
khiến cho phổi dễ bị nhạy cảm trước các nhiễm khuẩn trong khi phơi nhiễm chất
nitrosamines đặc trưng có liên quan tới các loại ung thư như ung thư phổi, mũi,
thực quản, gan, tuyến tụy và cổ tử cung. Tác động lên phụ nữ mang thai và trẻ
em Do tác dụng phụ rõ ràng của nicotine đối với sự phát triển và chức năng sinh
sản, việc sử dụng TLNN ở phụ nữ mang thai và trẻ em được quan tâm đặc biệt.
TLNN có liên quan đáng kể đến bệnh hen suyễn và viêm mũi dị ứng đối với thanh
thiếu niên và hút TLNN khi mang thai có thể làm tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân
so với tuổi thai, gây ra đẻ non, thai chết lưu cùng hậu quả nghiêm trọng kéo
dài đối với sự phát triển não bộ.
Tăng nguy cơ bị bệnh răng, miệng
Người sử dụng TLNN và các sản phẩm thuốc lá khác có tỷ lệ mắc bệnh nha chu cao
hơn so với những người không bao giờ sử dụng
2.3. Tác hại của TLĐT, TLNN đối với
người hút thuốc thụ động
Với bản chất hóa hơi của TLĐT và
TLNN, thì nguy cơ gây hại là rõ ràng khi tiếp xúc với khói thuốc thụ động, ngay
cả khi các hóa hơi này không được nhìn rõ. WHO và Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ
thuật và Y học Quốc gia Hoa Kỳ (NASEM) đều xác định rằng có bằng chứng thuyết phục
cho thấy sol khí của TLĐT làm tăng nồng độ các hạt vật chất, nicotine và một số
chất độc trong không khí. Các nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng phơi nhiễm
trực tiếp với sol khí của TLĐT làm trầm trọng thêm bệnh hen suyễn ở thanh thiếu
niên, cũng như gây ho, buồn nôn/nôn, viêm họng và kích thích hô hấp hoặc nhiễm
độc nicotine cấp tính ở trẻ em và thanh thiếu niên. Người tiếp xúc thụ động với
sol khí HTPs có các triệu chứng ngắn hạn như đau họng, đau mắt và cảm giác
không khỏe. WHOvà các chuyên gia về không khí trong nhà khuyến cáo rằng hút
TLĐT, thuốc lá nung nóng nên bị cấm ở những nơi cấm hút thuốc.
2.4. Ảnh hưởng của TLĐT, TLNN tới xã
hội, kinh tế, môi trường
Nguy cơ phát sinh các tệ nạn xã hội TLĐT và kể
cả một số loại thuốc lá nung nóng mới phát sinh, có sử dụng nhiều hương liệu,
hóa chất không phải là từ nguyên liệu lá thuốc lá điếu thông thường. Nguyên
liệu phối trộn nhiều loại thành phần khác nhau nên có thể bị lợi dụng để sử
dụng ma túy. Thông qua việc phối trộn, người sử dụng có thể tự ý tăng tỷ lệ
nicotine quá mức hoặc thêm ma túy và các chất gây nghiện khác vào để sử dụng mà
khó bị phát hiện. Một số khảo sát trong cộng đồng sử dụng TLĐT cho thấy rõ ràng
về mối liên quan giữa sử dụng TLĐT với các tệ nạn xã hội khác như ma túy, hút
shisha và các chất gây nghiện khác. Điều tra ở Mỹ cho thấy 30.6% thanh thiếu
niên (lớp 6-12) sử dụng TLĐT đã từng phối trộn chất ma túy từ cây cannabis với
dung dịch điện tử. Ở Việt Nam, nhiều trường hợp học sinh phải cấp cứu do ngộ
độc chất ma túy phối trộn trong TLĐT đã được ghi nhận tại Bệnh viện Bạch mai và
Trung tâm giám định ma túy Viện Khoa học hình sự Bộ Công an. Những hệ lụy này
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, môi trường, lối sống, hành vi của giới trẻ.
Thiết bị điện tử có thể hỏng, lỗi và
gây cháy nổ, thương tích, mất an toàn cho người sử dụng. Rác thải của bộ phận
điện tử của TLĐT và thuốc lá nung nóng gây ảnh hưởng đến môi trường, đặc biệt
là với thiết bị sử dụng một lần. Theo báo cáo của WHO năm 2017 và một số nghiên
cứu khác cho thấy: hai phần ba lượng thuốc lá điếu bị vứt bừa bãi; chỉ riêng
chi phí dọn sạch lượng thuốc lá bị vứt bừa bãi đã là 11 tỷ USD, chưa kể các chi
phí môi trường khác trong cả chuỗi cung ứng thuốc lá: trồng cây, sấy, ... Thêm
vào đó, thiết bị TLĐT, thuốc lá nung nóng có rất nhiều thành phần: nhựa, pin,
bảng mạch điện, lọ dung dịch…, quy trình dỡ bỏ, phân loại… nhằm tái chế hay vứt
bỏ, tiêu hủy đều phức tạp và tốn kém. Nếu bị vứt bỏ dưới dạng vỡ, nát có thể
phát tán ra môi trường các chất độc hại như kim loại, axit, nicotine, ...
Thực tế tại Mỹ, 58 triệu sản phẩm
TLĐT được bán ra trong năm 2015, trong đó có 19,2 triệu sản phẩm dùng một lần.
Các sản phẩm TLĐT thiếu hướng dẫn người dùng cách vứt bỏ sản phẩm.
2.5. Ảnh hưởng tới an sinh xã hội,
kinh tế và sự phát triển bền vững
TLĐT gây gánh nặng bệnh tật và chi phí liên
quan đến bệnh tật lớn. Thuốc lá gây thiệt hại 500 tỷ đô la mỗi năm cho nền kinh
tế thế giới. Ước tính chi phí y tế điều trị các bệnh liên quan đến thuốc lá,
giảm năng suất lao động và các chi phí xã hội khác chiếm 3,6% GDP102. Tiêu dùng
TLĐT, thuốc lá nung nóng ảnh hưởng tới đói nghèo và phát triển bền vững. Các
hãng TLĐT, thuốc lá nung nóng đang có xu thế đưa ra nhiều sản phẩm với giá bán thấp
hơn để tiếp cận người có thu nhập thấp (là đối tượng dễ tổn thương nhất). Chi
tiêu cho thuốc lá làm giảm các chi tiêu thiết yếu khác của hộ gia đình, đặc
biệt là ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em trong các gia đình có thu nhập
thấp. Một người hút thuốc trong một năm tiêu hết số tiền bằng 1/3 số tiền chi
cho lương thực, gấp 1,5 lần so với chi cho giáo dục, gấp 5 lần chi phí y tế
tính theo bình quân đầu người.
Như vậy, hút thuốc lá là một trong
những nguyên nhân làm gia tăng nghèo đói.
2.6. Sự thật liên quan đến sử dụng
các sản phẩm thuốc lá mới
TLĐT, TLNN không phải là sản phẩm ít
hại hơn thuốc lá điếu thông thường WHO đã khẳng định: “Không có bằng chứng nào
chứng minh rằng TLĐT, TLNN ít gây hại hơn các sản phẩm thuốc lá thông thường.”.
TLĐT, TLNN đều chứa nicotine là chất gây nghiện cao, gây hại đến sức khỏe đặc
biệt là sự phát triển não bộ ở trẻ em và thanh thiếu niên. Khói TLĐT có chứa
các chất độc hại gồm aceton, acrolein, acet-aldehyde, formaldehyde, các hợp
chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC), hydrocacbon thơm đa vòng (PAHs), nitrosamine đặc
trưng của thuốc lá (TSNA), và kim loại (nồng độ chì, crom, niken và fomandehit
được tìm thấy trong một số khói của một số sản phẩm TLĐT ở mức bằng và cao hơn
thuốc lá điếu truyền thống). Khói thuốc lá nung nóng có chứa các hóa chất độc
hại tương tự như khói thuốc lá điếu truyền thống. Nồng độ một số hóa chất trong
thuốc lá nung nóng thấp hơn thuốc lá điếu truyền thống, nhưng nồng độ một số
hóa chất khác lại cao hơn, và tạo ra những chất mới không có trong thuốc lá
thông thường, có khả năng gây hại cho sức khỏe. Không có bằng chứng khoa học
của tuyên bố: “TLĐT giảm hại hơn 95% so với thuốc lá thông thường.” Thông tin
này được đưa trên cơ sở một bài báo được tài trợ bởi ngành công nghiệp thuốc lá
và không đảm bảo cơ sở khoa học. FDA không phê duyệt sản phẩm thuốc lá nung
nóng IQOS là “giảm hại”. FDA chỉ phê duyệt IQOS là sản phẩm điều chỉnh nguy cơ,
và bác bỏ tuyên bố rằng việc sử dụng sản phẩm này ít gây hại hơn so với các sản
phẩm thuốc lá khác. WHO khuyến cáo các quốc gia cần có biện pháp “ngăn chặn
việc đưa ra các kết luận thiếu căn cứ về an toàn của TLĐT, thuốc lá nung nóng.
TLĐT, TLNN không giúp cai nghiện thuốc lá điếu
thông thường. Các sản phẩm phân phối nicotine thay thế trong TLĐT và TLNN, bằng
cách nhanh chóng đưa nicotine vào não tương tự như thuốc lá, giúp duy trì chứ
không làm mất đi việc nghiện nicotine. Theo WHO, chưa có bằng chứng cho thấy
TLĐT, TLNN giúp cai thuốc lá điếu thông thường. Ngược lại, bằng chứng cho thấy
người sử dụng TLĐT, TLNN tăng nguy cơ sử dụng kép các loại thuốc lá. Việc người
dùng sử dụng đồng thời cả TLĐT, TLNN và thuốc lá thông thường đã được ghi nhận
ở nhiều quốc gia. Ở Mỹ, bằng chứng cho thấy hầu hết người sử dụng TLĐT để cai
thuốc lá đều không bỏ được thuốc lá, thay vào đó họ tiếp tục sử dụng đồng thời
cả TLĐT và thuốc lá điếu truyền thống (CDC Hoa Kỳ). Khoảng 70% người dùng TLNN
ở Nhật Bản và 96,2% người dùng TLNN ở Hàn Quốc sử dụng đồng thời TLNN với
thuốc lá điếu truyền thống
Mặt khác, TLĐT/TLNN cũng làm tăng
nguy cơ dẫn tới sử dụng thuốc lá điếu truyền thống ở người trẻ. Nghiên cứu cho
thấy thanh thiếu niên và người trẻ chưa bao giờ hút thuốc lá nhưng sử dụng TLĐT
thì có nguy cơ bắt đầu hút thuốc lá điếu truyền thống cao hơn 3,5 lần so với
nhóm chưa từng sử dụng TLĐT.
Trên thế giới, hàng triệu người hút
thuốc đã bỏ thuốc lá qua các biện pháp kiểm soát thuốc lá của chính phủ, mà
không sử dụng bất kỳ loại cai nghiện thuốc lá nào. Việc khuyến khích người hút
thuốc chuyển sang TLĐT, thuốc lá nung nóng không làm cho họ có thể bỏ thuốc lá.
Thay vào đó, chính phủ nên thúc đẩy cai thuốc lá để giúp người hút thuốc không
bị nghiện tất cả các dạng nghiện nicotine.
TLĐT, TLNN là sản phẩm không chỉ
dành cho người trưởng thành hút thuốc mà còn nhắm tới giới trẻ. Ngành công
nghiệp thuốc lá thường lập luận rằng các sản phẩm TLĐT, TLNN là những sản phẩm
ít độc hại và chỉ dành cho những người trưởng thành sử dụng để giảm độc hại.
Tuy nhiên, trên thực tế, bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau họ đang nhắm tới
đối tượng khách hàng mới là thanh thiếu niên. Số liệu thống kê cho thấy xu
hướng sử dụng TLĐT và nung nóng trong trẻ em và thanh thiếu niên ở các nước
trên thế giới gia tăng nhanh chóng trong vài năm trở lại đây.
Các tập đoàn thuốc lá đa quốc gia sử
dụng nhiều cách thức để hướng tới đối tượng là giới trẻ như sử dụng hương vị
hấp dẫn, thiết kế sản phẩm “bắt mắt”, “thời trang”, “tiện ích theo xu hướng
công nghệ” và quảng bá rộng rãi sản phẩm trên mạng xã hội. Quảng cáo, tiếp thị sản phẩm nhắm tới giới
trẻ.
Nắm bắt được xu hướng tiếp cận các dịch vụ
công nghệ của giới trẻ, các tập đoàn thuốc lá sử dụng phương tiện truyền thông
mạng xã hội để quảng bá sản phẩm, tài trợ cho người nổi tiếng và có ảnh hưởng
trên mạng xã hội để giúp quảng cáo các sản phẩm và dễ dàng tiếp cận với giới
trẻ. Các chiến dịch quảng cáo này thường tạo các hình ảnh sành điệu, thời
thượng và vui vẻ khi sử dụng TLĐT và thuốc lá nung nóng. Hương vị hấp dẫn, phù
hợp thị hiếu thanh thiếu niên.
Nghiên cứu cho thấy có hơn 16.000
hương vị độc đáo được sử dụng trong dung dịch TLĐT có sẵn trên thị trường,
nhiều loại trong số đó hấp dẫn trẻ em như hương trái cây, hương vị kẹo. Nghiên
cứu cho thấy hương vị đóng vai trò trong quyết định sử dụng TLĐT lần đầu của
người dùng. Hương vị cũng làm cho sản phẩm dễ chịu hơn, dễ hít vào hơn, do đó, thay
đổi nhận thức liên quan đến tác hại của việc sử dụng.
Các sản phẩm TLĐT và TLNN được thiết
kế đa dạng từ màu sắc đến hình ảnh, kiểu dáng nhỏ gọn, tạo xu hướng sang trọng,
phong cách, kết hợp nhiều tính năng sử dụng tiện lợi (phát sáng, phát nhạc,
...). Rất nhiều sản phẩm được thiết kế như những đồ dùng học tập (bút, USB,
...), dây đeo cổ, đồng hồ đeo tay, cây son môi, … nên giáo viên và cha mẹ không
biết vì không nhận dạng được đó là TLĐT.
TLĐT và TLNN đang được quảng cáo khá phổ biến
trên mạng xã hội. Theo một báo cáo rà soát tin tức về thuốc lá và phòng chống
tác hại thuốc lá trên các kênh truyền thông internet tại Việt Nam cho thấy:
trong vòng 06 tháng cuối năm 2021, có 54,967 tin bài đăng liên quan đến TLĐT,
thuốc lá nung nóng trên các kênh truyền thông internet tại Việt Nam (báo điện
tử, trang thông tin điện tử, Blog, Diễn đàn (forum), mạng xã hội Facebook,
Youtube). Trong đó, mạng xã hội Facebook là kênh tập trung lượng tin bài nhiều
nhất và tiếp theo là Tiktok; nội dung thông tin chủ yếu là mua bán, quảng cáo,
chia sẻ kinh nghiệm sử dụng.