1. Có cần mua máy trợ thở, máy đo nồng độ SpO2 không?
Máy đo SpO2 : Nếu máy dễ dàng mua được và không quá đắt thì nên mua 1 chiếc để ở nhà. Bình thường máy có giá dao động khoảng 100.000 - 500.000/chiếc. Nếu thấy máy đắt quá hoặc khó mua thì cũng không nhất thiết phải có bằng được máy này.
Trên thế giới, ngay cả trong hướng dẫn chuyên sâu, các hiệp hội tim mạch, hô hấp, hồi sức cấp cứu... cũng tiến tới lựa chọn các phương pháp chẩn đoán đơn giản sẵn có như đếm nhịp thở, đếm mạch, đo nhiệt độ... thay vì phải dùng máy móc và xét nghiệm phức tạp.
Mục đích của phương pháp này là để bất cứ ai, bất cứ ở đâu cũng có thể theo dõi được người bệnh và phát hiện các dấu hiệu một bệnh nhân đang chuyển nặng.
Do đó có thể theo dõi F0 bằng những chỉ số đơn giản mà ai cũng làm được.
Lưu ý thêm: Đo SpO2 bằng ứng dụng trên điện thoại không có giá trị. Đã có nhiều nghiên cứu về các ứng dụng này trên cả hai nền tảng IOS và Android cho thấy nó không đáng tin cậy.
Máy trợ thở : Loại máy này cần có bác sĩ có kinh nghiệm vận hành, sử dụng; cần có hệ thống cung cấp oxy... Những thứ này đều có trong bệnh viện, do đó không cần mua máy trợ thở. Khi bệnh nhân trở nặng cần đến hệ thống máy trợ thở, thì đưa bệnh nhân đến bệnh viện bằng mọi cách.
2. Phát hiện bệnh nhân F0 đang chuyển nặng thế nào?
Khi đang cách ly tại nhà, có thể áp dụng những phương pháp đơn giản để theo dõi sức khỏe sau đây:
2.1. Đếm mạch:
Vị trí đặt ba ngón tay lên cổ tay (như hình trên), sẽ thấy mạch đập dưới tay mình.
Người lớn mạch 60 - 100 lần/phút là hoàn toàn bình thường. Trên 100 lần/phút hoặc dưới 50 lần/phút, nên báo y tế.
Trẻ em: Mạch của trẻ nhỏ khó đếm hơn, do đó có thể đặt tay vào giữa nếp bẹn hoặc bên cạnh cổ của trẻ để tìm mạch đập.
+ Trẻ sơ sinh: Bình thường 100 - 160 lần/phút.
+ Trẻ 1 - dưới 6 tháng: 90 - 150 lần/phút.
+ Trẻ 6 - 12 tháng: 80 - 140 lần/phút.
+ Trẻ 1 - 3 tuổi: 80 - 130 lần/phút.
+ Trẻ 3 - 5 tuổi: 80 - 120 lần/phút.
+ Trẻ 6 - 10 tuổi: 70 - 110 lần/phút.
+ Trẻ 11 - 14 tuổi: 60 - 105 lần/phút
+ Từ 15 tuổi là 60 - 100 lần/phút.
Các chỉ số trên chỉ để tham khảo, dấu hiệu nặng của trẻ dễ phát hiện hơn khi đếm nhịp thở.
2.2. Đếm nhịp thở:
Nằm thư thái tối thiểu 5-10 phút, sau đó nhờ người khác đếm số lần lồng ngực phồng lên xẹp xuống. Hoặc có thể đặt điện thoại tự quay khung hình từ cằm xuống đến bụng, quay trong 3 - 5 phút, sau đó xem lại hoặc gửi cho bác sĩ.
Người lớn và trẻ lớn trên 15 tuổi có nhịp thở bình thường 16 - 20 lần/phút. Trên 25 hoặc dưới 15 lần/phút, cần phải báo y tế.
Trẻ em có nhịp thở nhanh hơn người lớn. Cụ thể:
+ Trẻ sơ sinh thở 30 - 50 lần/phút.
+ Trẻ 2 - 11 tháng thở 25 - 40 lần/phút.
+ Trẻ 1 - 5 tuổi thở 20 – 30.
+ Trẻ 6 - 10 tuổi thở 15 - 30 lần/phút.
2.3. Đo nhiệt độ:
Dùng nhiệt kế kẹp nách trong tối thiểu 10 phút. Có thể dùng nhiệt kế bắn tai hoặc trán, đo ở tai là chính xác nhất.
+ Từ 36.1°C đến 37.2°C là bình thường.
+ Sốt từ 37.3°C đến 38.5° C, lúc này người bệnh cần được chườm, lau cơ thể bằng khăn ấm, dùng miếng dán hạ sốt (nếu có).
+ Sốt từ 38.5°C trở lên, uống thuốc hạ sốt paracetamol liều 10 - 15mg/kg cân nặng. Ví dụ người lớn 50kg, có thể uống một viên đến 1.5 viên 500mg, tùy theo mức độ sốt. Nếu không thể dùng được paracetamol, có thể dùng thuốc khác thay thế như ibuprofen hoặc asprin, tuy nhiên nên xin ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc.
Liều thuốc hạ sốt cho trẻ em cũng tính theo cân nặng, nếu trẻ sốt trên 38.5°C. Cho trẻ uống gói thuốc hạ sốt hoặc đặt viên đặt hậu môn có thành phần paracetamol, với liều 10-15 mg/kg cân nặng. Ví dụ, trẻ nặng 10kg có thể pha một gói paracetamol 150mg với khoảng 30ml nước ấm cho trẻ uống, hoặc đặt hậu môn một viên thuốc đạn efferalgan 150mg. Chỉ đặt hậu môn khi trẻ không thể uống được, bị nôn trớ... vì đặt hậu môn nhiều có thể gây rối loạn bài tiết phân. Tốt nhất nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc.
Lưu ý:
- Khi sốt, nhịp tim (mạch) và nhịp thở sẽ tăng lên, muốn đếm chính xác cần hạ sốt cho bệnh nhân.
- Quan sát: Nếu sắc mặt, màu môi, đầu các ngón tay hồng hào là bình thường. Nếu thấy mặt tái, vã mồ hôi, môi và đầu ngón tay tím... là dấu hiệu nguy hiểm.
- Có thể chụp hình 1/2 gương mặt từ mắt xuống cằm, hai mặt của bàn tay (nhìn thấy hết ngón tay), gửi cho bác sĩ xem giúp.
* Nếu người bệnh có dấu hiệu: Mệt nhẹ, ho khan, đau họng, mất khứu giác, nghẹt mũi, đau đầu, đau cơ, sốt không liên tục, mạch 60-100, thở 15-20 lần/phút... là triệu chứng nhẹ. Lúc này bệnh nhân cần ăn uống đủ chất, nhiều rau quả, uống nước cam, sinh tố, vitamin C, vitamin 3B...
* Nếu người bệnh mệt nhiều hơn, thở 21 - 25 lần/phút, mạch 100 đến dưới 120 lần/phút, mặt môi tái...
Trẻ em: Nhịp tim và nhịp thở tăng trên 10 nhịp so với giá trị bình thường (phần trên đã nêu) là bắt đầu khó thở.
Lúc này tại nhà nếu có oxy phải cho thở oxy và báo y tế địa phương. Cố gắng đưa bệnh nhân đi bệnh viện càng sớm càng tốt.
Trường hợp người bệnh mệt lả, lơ mơ li bì, tím tái, thở hổn hển co rút lồng ngực, người lớn thở trên 30 lần/phút hoặc dưới 10 lần/phút, mạch trên 120 lần/phút hoặc dưới 50 lần/phút hoặc không sờ thấy mạch là dấu hiệu nguy kịch. Người bệnh lúc này cần được can thiệp y tế khẩn cấp, nếu không sẽ đe dọa tính mạng.
3. Dùng thuốc hạ sốt tylenol hay paracetamol?
Thực ra hai thuốc này là một, đều chứa thành phần paracetamol (giảm đau, hạ sốt). Không nhất thiết vì nghe quảng cáo mà phải tìm bằng được tylenol. Hoạt chất paracetamol rất phổ biến, chất lượng các loại thuốc không khác nhau nhiều. Và paracetamol dù cho tên biệt dược là gì, của hãng nào sản xuất… nếu sử dụng quá liều, thì đều gây tổn thương gan cấp, đe dọa tính mạng như nhau.
Việc tự ý sử dụng thuốc hạ sốt giảm đau là một vấn đề đã được cảnh báo thường xuyên, nhưng không bao giờ là cũ. Vẫn còn rất nhiều người tự ý sử dụng thuốc hạ sốt quá liều sẽ dẫn đến ngô độc nguy hiểm. Bệnh nhân COVID-19 có đến 80% thể nhẹ và không triệu chứng, đa số người bệnh nhập viện cũng có thể hồi phục, nhưng suy gan cấp do paracetamol thì tỷ lệ tử vong cực kỳ cao. Do đó nếu bệnh không có triệu chứng thì không nên dùng thuốc
4. Người thân là F0 thì cần làm gì?
Nếu ở cùng nhà, khi một người mắc COVID-19 thì khả năng rất cao các thành viên khác cũng dương tính. Việc tuân thủ 5K trong một gia đình rất khó thực hiện, do vậy không nên cố chờ kết quả xét nghiệm nữa.
Việc cần làm lúc này là theo dõi sức khỏe cho tất cả thành viên trong gia đình theo hướng dẫn phía trên. Khi thấy bất thường lập tức báo các bác sĩ theo dõi, y tế địa phương, yêu cầu hỗ trợ.
(Khuyến cáo trên đây dựa trên các tài liệu y khoa chính thống và phân độ bệnh nhân theo công văn 3416/QĐ-BYT).
Nguồn: Bộ Y tế